Tăng tiết mồ hôi nguyên phát (PFH) - nguyên nhân và các cách điều trị

Ngày đăng: 09/07/2019 08:06AM | Lượt xem: 1112

Hyperhidrosis (ra mồ hôi quá mức) là một trạng thái thường gặp, hiếm khi do bệnh lý nghiêm trọng bên dưới gây ra, có thể có hệ quả nghiêm trọng đến các mỗi quan hệ xã hội, cảm xúc và nghề nghiệp.

Việc chẩn đoán và điều trị mồ hôi cục bộ nguyên phát (PFH) sẽ được trình bày dưới đây:

II. ĐỊNH NGHĨA

Hyperhidrosis là sự tăng tiết một lượng mồ hôi nhiều hơn so với sinh lý bình thường cần cho sự điều nhiệt của cơ thể. Thường gặp nhất là một bệnh lý tự phát mạn tính; tuy nhiên, các bệnh lý thứ phát hoặc thuốc nên được loại trừ trước khi chẩn đoán. Tăng tiết mồ hôi tự phát khu trú ở một số vị trí nhất định trên cơ thể được gọi là Tăng tiết mồ hôi cục bộ nguyên phát (PFH). PFH thường ảnh hưởng ở các vị trí như nách, gan bàn tay và gan bàn chân. Bệnh lý này cũng có thể ảnh hưởng đến các vị trí khác như mặt, da đầu, vùng bẹn và nếp lằn vú.

Tiêu chuẩn chẩn đoán PFH dựa trên sự đồng thuận của các chuyên gia cho rằng:

- Tiết mồ hôi quá mức, rõ ràng, cục bộ trong ít nhất 6 tháng mà không có nguyên nhân rõ ràng bên ngoài.

Kèm theo ít nhất 2 trong số các đặc điểm sau:

- Đối xứng hai bên.

- Suy giảm các hoạt động hằng ngày.

- Ít nhất một đợt mỗi tuần.

- Khởi phát trước tuổi 25.

- Tiền sử gia đình về PFH.

- Tiết mồ hôi cục bộ ngừng trong khi ngủ.

Ra mồ hôi khiến cuộc sống của bạn trở nên khó khăn và mất tự ti

Ra mồ hôi khiến cuộc sống của bạn trở nên khó khăn và mất tự ti

III. TRIỆU CHỨNG

Những bệnh nhân với PFH thường phát triển các triệu chứng từ khi còn trẻ nhỏ hoặc ở độ tuổi thanh thiếu niên và dai dẵng xuyên suốt trong đời sống. Bệnh nhân có các triệu chứng cục bộ hầu hết thường khu trú ở vùng gan bàn tay, gan bàn chân và nách. Ít gặp hơn, PFH có thể ảnh hưởng ở vùng da đầu và mặt, hoặc những vị trí khác. Mặc dù PFH bị trở nên nặng nề hơn bởi sự kích thích nhiệt độ và cảm xúc, nhưng nó không liên quan đến một rối loạn tâm lý nào cả.

Những bệnh nhân với tăng tiết mồ hôi quá mức ở vùng nách thuật lại có sự ngấm ướt vùng da và nhuốm màu quần áo. Vùng gan bàn tay thường dẫn đến một nỗi sợ khi bắt tay với người khác và làm vấy bẩn các loại giấy, và bệnh nhân có thể khó khăn khi làm việc hoặc chơi những trò chơi tiêu khiển đòi hỏi phải có một bàn tay khô ráo. Những bệnh nhân này thường phàn nàn về hệ quả của PFH lên các vấn đề xã hội trên cả hai mức độ cá nhân và nghề nghiệp.

PFH thường có một tỉ lệ gia tăng các rối loạn về da khác. Trong một nghiên cứu hồi cứu trên 387 bệnh nhân với PFH thì thấy được sự hiện diện của các bệnh lý về da khác như nấm da, bệnh tiêu sừng lõm lòng bàn chân (bàn chân rỗ) và mụn cơm virus ở các ví trí tăng tiết mồ hôi. Hơn nữa, viêm da cơ địa và các bệnh da do chàm khác cũng hiện diện ở một tỉ lệ lớn hơn ở những cá thể tăng tiết mồ hôi. Lý do của sự liên quan này là chưa được biết rõ; một giả thuyết cho rằng tăng tiết mồ hôi quá mức là một yếu tố làm trầm trọng cho viêm da.

IV. DỊCH TỄ VÀ NGUYÊN NHÂN GÂY RA TĂNG TIẾT MỒ HÔI NGUYÊN PHÁT

Sự phổ biến của PFH được ước tính khoảng từ 1 đến 5% dân số toàn cầu.

Một nghiên cứu trên các bệnh nhân với tăng tiết mồ hôi nguyên phát ở gan bàn tay được điều trị với phẫu thuật nội soi cắt hạch thần kinh giao cảm ngực cho thấy có đến 49 trong 58 bệnh nhân và 0 trong số 20 nhóm chứng báo cáo có một tiền sử gia đình về PFH, điều này gợi ý rằng có một sự liên quan về gen di truyền trong bệnh sinh này.

V. BỆNH HỌC

Sự tiết mồ hôi là để hỗ trợ cho quá trình điều nhiệt cơ thể, dưỡng ẩm da và cân bằng dịch và điện giải cơ thể. Có 3 loại tuyến mồ hôi:

- Eccrine sweet glands (tuyến mồ hôi thủy dịch): có nhiều nơi trên da, tách rời với lỗ chân lông, nó chỉ tiết ra mồ hôi dạng nước mà không có các tế bào chất bị rụng theo, hay còn gọi là mồ hôi nước hay mồ hôi thường.

- Apocrine sweet glands (tuyến mồ hôi dầu): chỉ có ở những vùng có tóc và lông dày như nách, đầu, bộ phận sinh dục. Loại này khi tiết mồ hôi có rụng thêm các tế bào chất mà trong thành phần có các hợp chất amoniac, axit béo… Chính các vi khuẩn phân hủy các axit béo này và tạo ra mùi hôi.

- Apoeccrine sweet glands (tuyến mồ hôi hỗn hợp).

Chức năng nguyên phát của các tuyến mồ hôi thủy dịch là điều nhiệt, với làm mát từ sự bay hơi của các mồ hôi nước. Các tuyến mồ hôi thủy dịch có mặt ở khắp cơ thể, nhưng chúng tập trung với số lượng nhiều nhất ở gan bàn tay, gan bàn chân và (một mức độ ít hơn) ở nách. Tiết mồ hôi ở mặt, ngực và lưng thường do kích thích nhiệt nóng, trong khi tiết mồ hôi ở gan bàn tay và gan bàn chân là do stress cảm xúc. Ở vùng nách có cả 3 loại tuyến mồ hôi kể trên. Tiết mồ hôi do nhiệt nóng có thể xảy ra trong suốt cả ngày, trong khi tiết mồ hôi do cảm xúc (gan bàn tay, gan bàn chân và nách) ngừng lại khi ngủ.

Các tuyến mồ hôi thủy dịch được phân bổ bởi hệ thống thần kinh giao cảm nhưng sử dụng Acetylcholine (Ach) như là chất dẫn truyền thần kinh nguyên phát. Tiết mồ hôi do nhiệt nóng và cảm xúc được kiểm soát bởi các vùng khác nhau ở não bộ. Tiết mồ hôi do nhiệt nóng được kiểm soát bởi vùng dưới đồi thông qua trung tâm mồ hôi nhạy cảm nhiệt nằm trước chéo thị, trong khi tiết mồ hôi do cảm xúc được điều hòa bởi vỏ não. Một tín hiệu giao cảm được truyền đến các tuyến nội tiết thông qua các nơ-ron tự động cholinergic. Ở những bệnh nhân PFH, các tuyến mồ hôi thường có mô học và chức năng bình thường. Thay vào đó, nguyên nhân của tăng tiết mồ hôi dường như là một phản ứng trung tâm bất thường hoặc quá mức đối với các stress cảm xúc thông thường.

VI. CHẨN ĐOÁN PHÂN BIỆT

Các bệnh nhân PFH thường có tăng tiết mồ hôi quá mức ở mặt, da đầu, gan bàn tay, gan bàn chân hoặc nách. Sự tăng tiết mồ hôi toàn thể thường gợi ý một nguyên nhân khác hơn là PFH.

Tăng tiết mồ hôi thứ phát: Nguyên nhân thường gặp nhất của tăng tiết mồ hôi toàn thể là nhiệt quá nóng. Tăng tiết mồ hôi toàn thể có thể do bệnh hệ thống hoặc thuốc. Không giống như PFH, các bệnh nhân với tăng tiết mồ hôi thứ phát toàn thể thường biểu hiện ở người lớn và được báo cáo rằng tiết mồ hôi cả khi thức dậy và ngủ. Một tiền sử của tăng tiết mồ hôi toàn thể yêu cầu được đánh giá một cách cẩn thận về các nguyên nhân hệ thống. Chẩn đoán phân biệt đối với tăng tiết mồ hôi toàn thể là giống với chẩn đoán phân biệt của ra mồ hôi khi ngủ ban đêm (night sweat). Chúng ta nên đánh giá về các dấu hiệu và triệu chứng của một nguyên nhân nhiễm trùng như Lao, HIV, hoặc viêm nội tâm mạc; một nguyên nhân ác tính như lymphoma; hoặc một bệnh nội tiết như hội chứng Carcinoid, U tủy thượng thận hoặc cường giáp.

Các thuốc nên được xem xét cẩn thận, có nhiều thuốc có thể là nguyên nhân của tăng tiết mồ hôi toàn thể

Trong khi mãn kinh là một nguyên nhân thường gặp của tiết mồ hôi quá mức, các bác sĩ lâm sàng nên khai thác tiền sử và khám lâm sàng cẩn thận trước khi kết luận rằng tăng tiết mồ hôi quá mức ở phụ nữ lứa tuổi tiền mãn kinh là do xung nhiệt đột ngột (cảm giác nóng bừng).

Các nguyên nhân khác của tăng tiết mồ hôi quá mức gồm:

- Các bệnh nhân với tổn thương tủy sống trước đây có thể phát triển một tình trạng tiết mồ hôi như vậy trong thời gian dài sau chấn thương. Các tình trạng tiết mồ hôi này có thể do tăng phản xạ tự phát (AD), hạ huyết áp tư thế hoặc rỗng tủy sống sau chấn thương.

- Tiết mồ hôi vị giác (tiết mồ hôi nhẹ xung quanh môi, mũi và vùng trán) xảy ra bình thường khi có sự tiêu thụ đồ ăn nóng và cay. Tuy nhiên, tiết mồ hôi vị giác bệnh lý có thể do tổn thương thần kinh giao cảm, có thể do sự xâm lấn (như u Pancoast) hoặc do phẫu thuật cắt bỏ hạch giao cảm. Nó có thể do một bệnh lý thần kinh đái tháo đường, Herpes Zoster ở vùng trước tai, hoặc do sự chỉ dẫn sai của các sợi thần kinh tự động do phẫu thuật vùng mang tai (hội chứng Frey).

Chứng mồ hôi màu: là một bệnh lý không thường gặp, tự phát, không tăng tiết mồ hôi quá mức ở những tuyến mồ hôi dầu tiết ra mồ hôi màu (vàng, xanh da trời, xanh lá cây hoặc đen). Mồ hôi màu có thể xảy ra ở mặt (đặc biệt ở má), nách, quầng vú, bẹn và các vị trí khác.

VII. ĐIỀU TRỊ

Việc lựa chọn các cách tiếp cận thích hợp để điều trị thường xét đến các vị trí liên quan (nách, gan bàn tay, gan bàn chân hoặc các vị trí vùng sọ mặt). Các yếu tố khác, như mục tiêu, mong muốn và ưu tiên của bệnh nhân, cũng như độ an toàn, độ nặng của bệnh, giá thành và khả năng điều trị cũng tác động đến lựa chọn điều trị.

1. TĂNG TIẾT MỒ HÔI Ở VÙNG NÁCH

Các lựa chọn điều trị chính đối với tình trạng này gồm chất chống tiết mồ hôi, độc tố Botulinum, nhiệt vi sóng, thuốc uống và phẫu thuật.

a. First-line: Sử dụng chất chống tiết mồ hôi tại chỗ là phương pháp điều trị ban đầu được ưa thích đối với tăng tiết mồ hôi ở vùng nách vì đây là một liệu pháp có hiệu lực rộng, không đắt và dung nạp tốt.

Chất chống tiết mồ hôi: Về mặt thương mại, hầu hết là những thuốc không cần kê đơn bao gồm muối kim loại liều thấp (thường là Aluminum) có thể làm tắc nghẽn sự mở ra của các ống tuyến mồ hôi. Các sản phẩm không cần kê đơn này chỉ thành công trong điều trị các bệnh nhân với tăng tiết mồ hôi mức độ rất nhẹ.

Điều trị với các thuốc chống tiết mồ hôi cần phải kê đơn, như Aluminum chloride hexahydrate 20% hoặc Aluminum chrolide hexahydrate 6,25%, có thể mang đến một liệu pháp đầy đủ cho các bệnh nhân tăng tiết mồ hôi ở nách mà thất bại với các thuốc chống tiết mồ hôi không cần kê đơn.

Hiệu lực: Cơ chế của thuốc chứa muối Aluminum là thông qua sự kết tủa của các ion kim loại với mucopolysaccharides sau khi sử dụng lên vùng da, dẫn đến tổn thương các tế bào biểu mô bên trong các khoang của ống tuyến mồ hôi và hình thành nên những cái nút bít các ống đó lại.

Sử dụng: Các thuốc này nên được sử dụng về đêm ở vị trí của tăng tiết mồ hôi cho đến khi sự cải thiện được ghi nhận. Sự cải thiện hiệu quả có ý nghĩa có thể được ghi nhận trong vòng 1 tuần. Khoảng thời gian giữa các lần sử dụng sau đó có thể dần dần kéo dài ra. Sử dụng một lần mỗi tuần là điển hình cho liệu pháp duy trì.

b. Second-line: Các bệnh nhân không đạt được sự cải thiện hiệu quả với chất chống tiết mồ hôi tại chỗ có thể có lợi ích từ tiêm độc tố Botulinum hoặc liệu pháp nhiệt vi sóng.

Độc tố Botulinum: tiêm độc tố Botulinum định kỳ vào vùng da bị ảnh hưởng là một biện pháp an toàn và hiệu quả để cải thiện tăng tiết mồ hôi ở vùng nách. Tuy nhiên, điều trị có thể gây đau và đắt.

Hiệu lực: Độc tố Botulinum ức chế sự tiết của Acetylcholine từ khe trước synap ở cả thần kinh cơ và thần kinh tự động cholinergic. Bằng cách ức chế tiết Ach như vậy, độc tố Botulinum có thể giảm tiết mồ hôi. Mặc dù có nhiều dạng phẩm của độc tố Botulinum có thể cải thiện tăng tiết mồ hôi, nhưng hầu hết các nghiên cứu đều sử dụng OnabotulinumtoxinA hoặc AbobotulinumtoxinA. Liều của các tác nhân này là không tương đương, 1 đơn vị của OnabotulinumtoxinA bằng khoảng 3 đơn vị của AbobotulinumtoxinA. FDA chấp thuận độc tố Botulinum đối với tăng tiết mồ hôi quá mức ở vùng nách của OnabotulinumtoxinA nhưng ở mức hạn chế.

Một số nghiên cứu đã chứng minh hiệu lực của độc tố Botulinum A trong điều trị tăng tiết mồ hôi vùng nách.

- Trong một nghiên cứu ngẫu nhiên gồm 320 bệnh nhân với tăng tiết mồ hôi vùng nách nguyên phát hai bên, tỉ lệ đáp ứng sau 4 tuần là cao hơn có ý nghĩa với OnabotulinumtoxinA, 50U mỗi bên nách, so với giả dược (94% so với 36%). Sau 16 tuần, 82% trong nhóm OnabotulinumtoxinA vẫn có một đáp ứng hiệu quả khi so sánh với 21% nhóm giả dược.

- Trong một nghiên cứu ngẫu nhiên 145 bệnh nhân với tăng tiết mồ hôi vùng nách nguyên phát không đáp ứng với liệu pháp tại chỗ với Aluminum chloride, các bệnh nhân được tiêm với 200U AbobotulinumtoxinA một bên nách và giả dược phía bên còn lại. Sau 2 tuần, điều trị được biểu lộ, và vùng nách được sử điều trị với giả dược được tiêm 100U AbobotulinumtoxinA. 2 tuần sau khi tiêm liều ban đầu, tỉ lệ tiết mồ hôi ít hơn có ý nghĩa ở vùng được điều trị với AbobotulinumtoxinA (24 so với 144 mg/phút). 2 tuần sau khi tiêm 100U, tỉ lệ tiết mồ hôi giảm từ 144 xuống 32 mg/phút. Sự giảm trung bình trong tiết mồ hôi cao hơn khi tiêm 200U (81,4% so với 76,5%).

Mặc dù các nghiên cứu trên tìm thấy được sự giảm tiết mồ hôi tốt hơn với 200U AbobotulinumtoxinA, nhưng không rõ ràng về sự khác nhau này ở tầm quan trọng lâm sàng. Một nghiên cứu trên 43 bệnh nhân không tìm thấy sự khác biệt về mức độ hoặc thời gian giảm tiết mồ hôi với 100 hoặc 200U AbobotulinumtoxinA.

Sử dụng: Điều trị tối ưu của tăng tiết mồ hôi với độc tố Botulinum là phụ thuộc vào sự nhận diện chính xác vùng đặc trưng của tăng tiết mồ hôi. Một thử nghiệm tinh bột iod nhỏ là một phương pháp đơn giản để nhận diện các vị trí chịu trách nhiệm, được tiến hành theo các bước sau:

- Lau khô vùng bị ảnh hưởng với giấy thấm hút.

- Nhỏ dung dịch iod 3 – 5% vào vùng nách và vùng da lân cận

- Sử dụng tinh bột khô trên vùng đã nhỏ iod.

- Ghi chú lại các vị trí xuất hiện màu đỏ tía (các vị trí của tiết mồ hôi).

- Đánh dấu lại các vị trí của tiết mồ hôi với bút đánh dấu.

Sử dụng một kiêm 30 G tiêm độc tố Botulinum vào trong da hoặc vùng mỡ bề mặt. Điển hình thường 10 – 20 mũi tiêm cách nhau 1 – 2 cm được thực hiện mỗi vùng nách. Liệu trung bình đối với OnabotulinumtoxinA sử dụng cho mỗi nách là 50 – 100U; Điều trị AbobotulinumtoxinA thường yêu cầu 100 – 300U mỗi nách.

Liệu pháp nhiệt vi sóng: năng lượng vi sóng có thể sử dụng để phá hủy các tuyến mồ hôi thủy dịch và làm giảm nhẹ tình trạng tăng tiết mồ hôi ở vùng nách. Một thiết bị được thiết kế để tập trung năng lượng vi sóng vào vùng bề mặt của mô mỡ dưới da, được FDA công nhận và có thể sử dụng. Sự giới hạn về hiệu lực và giá thành có thể làm giới hạn đi một phần của liệu pháp này.

c. Các liệu pháp khác: Các liệu pháp khác có thể giúp cải thiện tăng tiết mồ hôi ở vùng nách bao gồm sử dụng các tác nhân hệ thống, can thiệp phẫu thuật và liệu pháp điện chuyển ion. Quan tâm về tác dụng phụ hoặc thiếu dữ liệu an toàn khiến cho các liệu pháp này trở thành các lựa chọn ít phổ biến trong liệu pháp ban đầu.

Chúng ta đồng ý với cách tiếp cận bậc thang bởi Hội tăng tiết mồ hôi quốc tế (IHS) đối với bệnh nhân không thể điều trị được bằng các liệu pháp first-line và second-line. Các bệnh nhân này đầu tiên nên được điều trị tại chỗ (nạo hút), theo sau đó là sử dụng các tác nhân hệ thống, cuối cùng là phẫu thuật nội soi cắt bỏ hạch giao cảm ngực (ETS).

Nạo hút:

Trong nhiều năm, tăng tiết mồ hôi vùng nách được điều trị phẫu thuật với nạo dưới da hoặc cắt bỏ vùng da bao gồm cả các tuyến mồ hôi thủy dịch. Tuy nhiên, thủ thuật này có một tỉ lệ thất bại đáng kể và để lại sẹo vĩnh viễn và nguy cơ giới hạn cử động vùng chi trên. Nạo hút xâm nhập tối thiểu, một công nghệ phẫu thuật tại chỗ mới để lấy bỏ các tuyến mồ hôi thủy dịch và mồ hôi dầu vùng nách, có thể cải thiện kết quả và giảm tỉ lệ bệnh tật.

Các tác nhân hệ thống:

Các liệu pháp hệ thống (Anticholinergics, Clonidine, chẹn Beta và Benzodiazepines) có thể hiệu quả đối với tăng tiết mồ hôi cục bộ nguyên phát. Các tác dụng phụ của các tác nhân này làm hạn chế việc sử dụng chúng hằng ngày.

Các tác nhân Anticholinergics thường được kê nhất là Glycopyrrolate uống hoặc Oxybutynin uống. Glycopyrrolate được sử dụng thường xuyên hơn so với Oxybutynin. Tuy nhiên, chỉ có Oxybutynin là được đánh giá trong các thử nghiệm ngẫu nhiên.

- Glycopyrrolate uống: Trong một chuỗi hồi cứu trên 45 bệnh nhân với tăng tiết mồ hôi nguyên phát (nách, gan bàn tay – bàn chân, toàn thể hoặc sọ mặt) được nhận điều trị với Glycopyrrolate đơn trị (11 bệnh nhân) hoặc kết hợp với các liệu pháp tại chỗ (34 bệnh nhân), 67% các bệnh nhân cải thiện triệu chứng. Ngoài ra, một nghiên cứu hồi cứu trên 31 trẻ em với tăng tiết mồ hôi (tuổi trung bình là 15 năm) thống kê dược 71% đạt được cải thiện nhiều các triệu chứng trong khi điều trị với Glycopyrrolate (với hoặc không kết hợp với Aluminum chloride tại chỗ). Các trẻ em trong nghiên cứu này được điều trị với tổng liều trung bình là 2 mg Glycopyrrolate mỗi ngày. Liều điển hình cho người lớn từ 1 – 2 mg mỗi 1 – 2 lần/ngày (1 – 4 mg/ngày). Tuy nhiên, liều dùng có thể tăng lên đến 8 mg/ngày thỉnh thoảng nhằm yêu cầu cải thiện các triệu chứng.

- Oxybutynin uống: Hiệu lực của Oxybutynin đối với tăng tiết mồ hôi được thu thập ở một thử nghiệm ngẫu nhiên 6 tuần ở 50 bệnh nhân với tăng tiết mồ hôi ở vùng nách hoặc gan bàn tay. Trong 6 tuần, có sự cải thiện tốt hoặc trung bình các triệu chứng xảy ra lần lượt là 48% và 26% các bệnh nhân điều trị với Oxybutynin (2,5 mg/ngày trong tuần đầu, 2,5 mg 2 lần/ngày trong 2 tuần, và 5 mg 2 lần/ngày trong 3 tuần). Liều dùng điển hình cho người lớn của Oxybutynin là 5 – 10 mg/ngày, tuy nhiên có thể tăng lên đến 20 mg/ngày.

Sự đáp ứng của các anticholinergics hệ thống thườn mất 1 tuần để đạt hiệu quả tối ưu. Điều chỉnh liều có thể cần để đạt được cải thiện tốt nhất với mỗi cá nhân. Điều trị liên tục là cần thiết để duy trì sự đáp ứng của điều trị.

Như đã nêu trên, các thuốc khác cũng được dùng để điều trị tăng tiết mồ hôi. Bằng chứng về hiệu lực của Clonidine, một đồng vận alpha-2 adrenergic làm giảm bớt sự dẫn truyền giao cảm, đối với tăng tiết mồ hôi còn hạn chế trong các báo cáo trường hợp và các nghiên cứu nhỏ. Liều dùng ở người lớn là 0,1 mg 2 lần/ngày. Hạ huyết áp là tác dụng phụ của tác nhân này.

Ở các bệnh nhân với tăng tiết mồ hôi liên quan đến cảm xúc đặc trưng, chẹn Beta hoặc Benzodiazepines có thể hữu ích để giảm kích thích cảm xúc gây ra tăng tiết mồ hôi quá nhiều.

Liệu pháp điện di ion:

Một điều trị dựa trên sử dụng dòng điện để ngăn chặn tiết mồ hôi, thường được sử dụng nhất đối với tăng tiết mồ hôi ở gan bàn tay và gan bàn chân. Hiện nay đã có những thiết kế cho các vùng khác trên cơ thể bao gồm đầu, mặt, lưng, ngực, bụng, đùi.... đem lại hiệu quả chữa trị rất cao. 

Phẫu thuật nội soi cắt bỏ hạch giao cảm (ETS):

Phẫu thuật nội soi cắt bỏ hạch giao cảm ngực trên làm cắt đứt chuỗi dẫn truyền giao cảm ở vùng ngực trên thông qua đốt và cắt.

ETS là phương pháp dành cho những bệnh nhân mức độ nặng và các triệu chứng không thể điều trị bằng các liệu pháp khác. Dựa trên xem xét đánh giá từ các tài liệu, một chuyên viên của Hội phẫu thuật lồng ngực đã đề nghị các bệnh nhân lý tưởng tiến hành ETS phải có các đặc điểm sau:

- Khởi phát trước 16 tuổi và trẻ hơn 25 tuổi lúc tiến hành phẫu thuật

- BMI < 28

- Không tăng tiết mồ hôi khi ngủ

- Không có các bệnh lý nghiêm trọng khác

- Nhịp tim khi nghỉ ngơi > 55 lần/phút

Nhiều nghiên cứu cho thấy ETS tỏ ra hiệu quả đối với tăng tiết mồ hôi ở chi trên, nhưng tác dụng phụ (đặc biệt là sự phát triển tăng tiết mồ hôi bù trừ các vị trí khác) là một sự lo lắng và loại trừ việc sử dụng ETS như là một liệu pháp ban đầu. Tỉ lệ được công bố của PFH tái diễn và tăng tiết mồ hôi bù trừ sau phẫu thuật ETS là khoảng rất rộng, lần lượt là từ 0 đến 65% và 3 đến 98%. Các bệnh nhân với tăng tiết mồ hôi gan bàn tay có thể thích hợp nhất để hài lòng kết cục của phương pháp ETS này.

Một ví dụ về nghiên cứu đánh giá ETS đối với tăng tiết mồ hôi chi trên: Trên 850 bệnh nhân với tăng tiết mồ hôi chi trên được điều trị với ETS hai bên, sau khi theo dõi 31 tháng sau đó, có đến 98% bệnh nhân hài lòng với kết quả, với chỉ 2% tiến triển các triệu chứng tái diễn. Tiết mồ hôi bù trừ, chủ yếu ở vùng thân, xảy ra ở 55% các bệnh nhân, chỉ có 2% số đó cảm thấy khó chịu như là một triệu chứng tăng tiết mồ hôi nguyên gốc. Hội chứng Horner xảy ra ở 3 bệnh nhân.

Ngoài ra, các tác dụng phụ khác của ETS có thể gặp như gồm: dị cảm, tràn khí màng phổi, tràn máu màng phổi, chứng tăng thân nhiệt và nhịp chậm.

2. TĂNG TIẾT MỒ HÔI VÙNG GAN BÀN TAY – BÀN CHÂN

Mặc dù có nhiều phương pháp điều trị giống với điều trị tăng tiết mồ hôi vùng nách và tỏ ra hiệu quả đối với vùng gan bàn tay – bàn chân, nhưng cách tiếp cận điều trị thì có hơi khác một chút. Đặc biệt, vai trò của liệu pháp điện chuyển ion là cao hơn trong điều trị.

a. First-line: Các chất chống tiết mồ hôi tại chỗ và điện chuyển ion là các cách điều trị thường sử dụng dựa trên độ an toàn của các liệu pháp này. Điều trị với chất chống tiết mồ hôi tại chỗ nên được sử dụng đầu tiên vì liệu pháp này sử dụng dễ dàng.

Các chất chống tiết mồ hôi: Các chất chống tiết mồ hôi tại chỗ mạnh cần kê đơn có thể cải thiện tăng tiết mồ hôi vùng gan bàn tay – bàn chân, mặc dù với một tỉ lệ thành công thấp hơn só với vùng nách. Chúng ta thường bắt đầu điều trị thử với Aluminum chloride hexahydrate 20% và cách điều trị là giống với điều trị tăng tiết mồ hôi vùng nách.

Điện chuyển ion: Liệu pháp này là sự ra đời của các chất ion hóa thông qua vùng da còn nguyên vẹn bằng cách sử dụng dòng điện trực tiếp (còn được gọi là sử dụng thuốc điện động hoặc sử dụng thuốc điện động qua da). Điện chuyển ion đối với tăng tiết mồ hôi thường được sử dụng với nước máy. Cơ chế chính xác của hoạt động này vẫn còn chưa rõ, nhưng điều trị chúng có thể ngăn chặn được các tuyến tiết mồ hôi. Dụng cụ điện chuyển ion có thể sử dụng tại nhà.

Điều trị bằng cách đặt bàn tay hoặc bàn chân vào một cái khay với đầy đủ nước để phủ ngập bàn tay và bàn chân. Sau đó bật máy điện chuyển ion và sử dụng theo chỉ dẫn. Một cách lý tưởng nhất là điều trị điện chuyển ion bắt đầu dưới sự hướng dẫn của chuyên gia sức khỏe để đảm bảo bệnh nhân hiểu được và có thể thực hiện đúng kỹ thuật. Sau khi cải thiện xuất hiện hoặc bệnh nhân có hiểu biết tốt về quy trình điều trị thì bệnh nhân có thể bắt đầu điều trị tại nhà.

Mặc dù chỉ có một số các dữ kiện giới hạn từ các thử nghiệm ngẫu nhiên, điện chuyển ion làm giảm nhẹ các triệu chứng khoảng 85% bệnh nhân với tăng tiết mồ hôi ở gan bàn tay – bàn chân và an toàn, đơn giản để thực hiện. Sự giảm tiết mồ hôi được ghi nhận bởi bệnh nhân trong 2 – 4 tuần khi điều trị 3 lần/tuần. Nếu điện chuyển ion bằng nước máy không hiệu quả, một tác nhân anticholinergic (ví dụ: viên nén Glycopyrrolate 2mg đã nghiền) có thể được thêm vào trong khay nước để điều trị.

Một vấn đề lớn nhất đối với bệnh nhân trong việc sử dụng phương pháp này là thời gian yêu cầu để thực hiện điều trị. Điều trị ban đầu thường là 20 – 30 phút mỗi ngày hoặc 3 lần mỗi tuần; tuy nhiên, tần suất của điều trị có thể giảm đi sau chỉ 10 – 15 lần điều trị. Trong khi một số nghiên cứu cho thấy rằng sự giảm tiết mồ hôi có thể duy trì với liệu pháp mỗi 2 tuần.

Các biện pháp hỗ trợ:

Các can thiệp thêm vào có thể giúp trong việc điều trị các triệu chứng của tăng tiết mồ hôi gan bàn chân bao gồm thay đổi trong chăm sóc chân. Thay đổi tất và giày thường xuyên, cũng như sử dụng đế giày thấm hút và thuốc bột thoa chân thấm hút có thể hiệu quả. Các bệnh nhân cũng nên tránh mang giày bít. Giày da và tất cotton, len hoặc loại hút ẩm tốt khác là có lợi. Các chất liệu tổng hợp có thể khiến nước ẩm đọng lại và tích tụ thì không được khuyến cáo.

b. Second-line: Tiêm độc tố Botulinum có thể rất hiệu quả đối với tăng tiết mồ hôi vùng gan bàn tay – bàn chân.

Độc tố Botulinum: Hiệu lực của độc tố Botulinum đối với tăng tiết mồ hôi vùng gan bàn tay được chứng minh trong các đa nghiên cứu, bao gồm một vài thử nghiệm ngẫu nhiên nhỏ. Các dữ liệu về hiệu quả trong tăng tiết mồ hôi vùng gan bàn chân vẫn còn hạn chế nhiều. Ví dụ, trong một thử nghiệm ngẫu nhiên 19 bệnh nhân với tăng tiết mồ hôi vùng gan bàn tay, tiêm giả dược ở một tay và tiêm độc tố Botulinum ở tay kia. Sau 4 tuần, trong 17 bệnh nhân không mất theo dõi, tất cả đều được đánh giá là tiêm độc tố Botulinum thành công, trong khi chỉ có 12% được đánh giá là tiêm giả dược thành công.

Nghiệm pháp tinh bột iod nhỏ có thể được tiến hành trước khi điều trị để nhận diện vùng tăng tiết mồ hôi rõ rệt. Các mũi tiêm được tiêm trong da và thường cách nhau 1 – 1,5 cm. Khoảng 50 – 100U đối với OnabotulinumtoxinA hoặc khoảng 100 – 240U đối với AbobotulinumtoxinA mỗi tay là liều điển hình của tăng tiết mồ hôi vùng gan bàn tay.

Lợi ích của tiêm độc tố Botulinum đối với tăng tiết mồ hôi được ghi nhận trong 7 – 10 ngày đầu tiên sau điều trị và thường kéo dài khoảng 6 tháng. Thời gian hiệu lực từ 2 – 22 tháng theo như báo cáo. Thời gian hiệu lực có thể tăng lên khi tiêm lặp lại.

c. Các liệu pháp khác:

Các liệu pháp khác có một tỉ lệ tác dụng phụ cao hơn ở các bệnh nhân không thể kiểm soát bằng các liệu pháp tại chỗ, không phẫu thuật. Như với tăng tiết mồ hôi vùng nách, các tác nhân hệ thống là một liệu pháp hiệu quả đối với tăng tiết mồ hôi vùng gan bàn tay – bàn chân. Các lựa chọn phẫu thuật bao gồm ETS đối với tăng tiết mồ hôi vùng gan bàn tay và nội soi cắt hạch giao cảm vùng lưng đối với tăng tiết mồ hôi vùng gan bàn chân. Với những lý do không rõ, một số bệnh nahan với tăng tiết mồ hôi vùng gan bàn tay – bàn chân cải thiện cả gan bàn tay và gan bàn chân sau khi tiến hành ETS.

3. TĂNG TIẾT MỒ HÔI VÙNG SỌ MẶT

Vị trí tăng tiết mồ hôi vùng sọ mặt là một yếu tố giới hạn đối với một số liệu pháp. Các lựa chọn điều trị chính bao gồm các liệu pháp tại chỗ, sử dụng các tác nhân hệ thống, tiêm độc tố Botulinum và phẫu thuật. Các dữ liệu về những điều trị riêng biệt này đối với tăng tiết mồ hôi vùng sọ mặt còn hạn chế.

a. First-line: Các chất chống tiết mồ hôi tại chỗ là liệu pháp đầu tiên dựa trên sự an toàn và dễ dàng sử dụng.

Các chất chống tiết mồ hôi: Các thuốc chống tiết mồ hôi không cần kê đơn hoặc kê đơn có thể được sử dụng để điều trị ban đầu đối với tăng tiết mồ hôi vùng sọ mặt. Chúng ta thường kê đơn Aluminum chloride hexahydrate 20%. Tuy nhiên, sự kích ứng có thể là một yếu tố giới hạn đối với điều trị vùng mặt.

b. Second-line: Các lựa chọn điều trị hiệu quả ở hàng lựa chọn thứ hai cho tăng tiết mồ hôi vùng sọ mặt bao gồm tiêm độc tố Botulinum và sử dụng các tác nhân hệ thống. Các tác dụng phụ của những liệu pháp này nên được cẩn trọng và thảo luận với bệnh nhân trước khi điều trị.

Độc tố Botulinum:

Sự cải thiện theo sau điều trị với độc tố Botulinum được ghi nhận ở các bện nhân điều trị tăng tiết mồ hôi vùng sọ mặt ở các nghiên cứu không đối chứng và các báo cáo trường hợp lâm sàng. Liệu pháp độc tố Botulinum đối với tăng tiết mồ hôi vùng sọ mặt nên được tiến hành cẩn thận nhằm tránh những khuyết tật chức năng hoặc thẩm mỹ thứ phát đến suy yếu cơ vô ý.

Các tác nhân hệ thống:

Các tác nhân hệ thống, như Glycopyrrolate uống và Oxybutynin uống, được sử dụng đối với tăng tiết mồ hôi vùng sọ mặt. Những thuốc này có một tỉ lệ đa tác dụng phụ liên quan đến tác dụng của anticholinergic của chúng.

c. Các liệu pháp khác:

Glycopyrrolate: là một tác nhân anticholinergic được sử dụng để điều trị tăng tiết mồ hôi vùng sọ mặt.

Phẫu thuật nội soi cắt hạch giao cảm ngực (ETS): ETS là một lựa chọn đối với các bệnh nhân tăng tiết mồ hôi vùng sọ mặt nặng nề mà không thể kiểm soát với các liệu pháp khác. Tuy nhiên, các tác dụng phụ dai dẳng như tiết mồ hôi bù trừ và hội chứng Horner có thể là hệ quả của ETS.

VIII. GIÁO DỤC VÀ HỖ TRỢ:

Tăng tiết mồ hôi có thể tác động tiêu cực đáng kể đến chất lượng cuộc sống. Ngoài việc điều trị y khoa, các bệnh nhân còn có thể hưởng lợi từ các phương pháp giáo dục và hỗ trợ. Hội Tăng tiết mồ hôi quốc tế (sweathelp.org) cung cấp nhiều thông tin hữu ích về tăng tiết mồ hôi và các công cụ cần thiết để giáo dục cho bệnh nhân và các nhà lâm sàng.

Trang cộng đồng tăng tiết mồ hôi Quốc tế - nơi những chia sẻ uy tín hàng đầu

Trang cộng đồng tăng tiết mồ hôi Quốc tế - nơi những chia sẻ uy tín hàng đầu

--------------- NÓI KHÔNG VỚI MỒ HÔI ------------

Tìm hiểu thêm về Máy chữa ra mồ hôi Dermadry

Xem thêm:

Bình luận bài viết
Tin mới

076 6161 369